Hành vi và Tính cách Nữ tính

Những đặc điểm như săn sóc, nhạy cảm, ngọt ngào,[15] thường động viên,[11][8] nhẹ nhàng,[8][9] ấm áp,[11][9] thụ động, hợp tác, thường bộc lộ cảm xúc,[25] thùy mị, nhún nhường, cảm thông,[8] tình cảm, dịu dàng[11] và dễ xúc động, tốt bụng, giúp ích, tận tụy và thấu hiểu[9] được coi là nữ tính theo khuôn mẫu. Những đặc điểm xác định của tính nữ khác nhau giữa và ngay cả trong các xã hội.[11]

Young Woman Drawing (1801, Metropolitan Museum of Art) vẽ bởi Marie-Denise Villers (có thể là chân dung tự họa) miêu tả tinh thần độc lập ở nữ giới.[30]

Mối liên hệ giữa xã hội hóa nữ tính và các mối quan hệ dị tính đã được các học giả nghiên cứu, vì tính nữ có liên quan đến sức hấp dẫn tính dục của phụ nữ và thiếu nữ với đàn ông.[15] Tính nữ đôi khi liên kết với vật hóa cơ thể phụ nữ về mặt tình dục.[31][32] Sự thụ động trong tình dục hay tiếp nhận tình dục đôi khi được coi là nữ tính trong khi tính quyết đoán và ham muốn tình dục đôi khi được coi là nam tính.[32]

Các học giả đã tranh luận về mức độ ảnh hưởng của xã hội hóa so với yếu tố sinh học lên bản dạng giới và hành vi cụ thể của giới.[4]:29[33][34] Sự ảnh hưởng xã hội và sinh học được cho là tương tác với nhau trong quá trình phát triển.[4]:29[3]:218–225 Những nghiên cứu về sự tiếp xúc tiền sinh sản với androgen đã cung cấp một vài bằng chứng cho thấy tính nữ và tính nam được quyết định một phần bởi sinh học.[2]:8–9[3]:153–154 Những ảnh hưởng khác có thể có về mặt sinh học bao gồm tiến hóa, di truyền, ngoại di truyềnhóc môn (cả trong quá trình phát triển lẫn trưởng thành).[4]:29–31[2]:7–13[3]:153–154

Vào năm 1959, các nhà nghiên cứu như John MoneyAnke Erhardt đã đề ra thuyết hóc môn tiền sinh sản. Nghiên cứu của họ lập luận rằng các cơ quan sinh dục đã "tắm" phôi thai bằng các hóc môn trong tử cung, dẫn đến sự hình thành một cá thể có bộ não bam hoặc nữ phân biệt; điều này được một số người gợi ý để "dự đoán sự phát triển hành vi trong tương lai theo hướng nam tính hoặc nữ tính".[35] Tuy nhiên, lý thuyết này đã bị chỉ trích trên cơ sở lý thuyết và thực nghiệm và vẫn còn gây tranh cãi.[36][37] Năm 2005, nghiên cứu khoa học điều tra sự khác biệt giới tính trong tâm lý học cho thấy rằng kỳ vọng giới và mối đe dọa định kiến ​​ảnh hưởng đến hành vi, và bản dạng giới của một người có thể phát triển sớm nhất là khi trẻ được ba tuổi.[38] Money cũng cho rằng bản dạng giới được hình thành trong ba năm đầu tiên của trẻ.[34]

Những người thể hiện sự kết hợp của cả đặc điểm nam tính và nữ tính được coi là ái nam ái nữ, và các nhà triết học nữ quyền đã lập luận rằng sự mơ hồ về giới tính có thể làm mờ phân loại giới tính.[39][40] Các khái niệm hiện đại về nữ tính cũng không chỉ dựa trên các cấu tạo xã hội, mà còn dựa trên các lựa chọn cá nhân của phụ nữ.[41]

Mary Vetterling-Braggin lập luận rằng tất cả các đặc điểm liên quan đến nữ tính đều nảy sinh từ những lần quan hệ tình dục ban đầu của con người, chủ yếu là do nam và nữ không muốn, vì sự khác biệt về giải phẫu của nam và nữ.[42] Những người khác, chẳng hạn như Carole Pateman, Ria Kloppenborg và Wouter J. Hanegraaff cho rằng định nghĩa về nữ tính là kết quả của việc phụ nữ phải cư xử như thế nào để duy trì một hệ thống xã hội phụ hệ.[31][43]

Trong cuốn sách năm 1998 của mình về Nam tính và Nữ tính: Chiều hướng cấm kỵ của các nền văn hóa quốc gia, nhà tâm lý học và nhà nghiên cứu người Hà Lan Geert Hofstede đã viết rằng chỉ những hành vi liên quan trực tiếp đến việc sinh sản mới có thể được mô tả là nữ tính hoặc nam tính, nhưng mọi xã hội trên toàn thế giới đều thừa nhận nhiều hành vi bổ sung phù hợp với nữ hơn nam và ngược lại. Ông mô tả đây là những lựa chọn tương đối tùy tiện qua các chuẩn mực và truyền thống văn hóa, xác định "nam tính so với nữ tính" là một trong năm kích thước cơ bản trong lý thuyết về các chiều kích văn hóa của ông. Hofstede mô tả các hành vi nữ tính như "phục vụ", "dễ dãi" và "nhân từ", đồng thời mô tả là nữ tính ở những quốc gia nhấn mạnh đến bình đẳng, đoàn kết, chất lượng cuộc sống và giải quyết xung đột bằng thỏa hiệp và thương lượng.[44][45]

Trong trường phái tâm lý học phân tích của Carl Jung, animaanimus là hai nguyên mẫu nhân hình chính của tâm trí vô thức. Các anima và animus được Jung mô tả là các yếu tố trong lý thuyết của ông về vô thức tập thể, một lĩnh vực của vô thức vượt qua tâm lý cá nhân. Trong vô thức của nam giới, nó tìm thấy biểu hiện như một tính cách bên trong nữ tính: anima; tương đương, trong vô thức của phụ nữ, nó được thể hiện như một nhân cách nam tính bên trong: animus.[46]